PHẢN BIỆN
Tôi viết nhiều về đề tài Lịch sử.Các bài viết lại thường lật lại các vấn đề mà tôi cho là chưa thấu đáo. Vì vậy , người đồng tình cũng nhiều mà người phản đối cũng không hiếm. Người đời thường rất quan ngại khi đọc những ý kiến phản biện trái chiều với quan điểm của mình, chứ đừng nói đến chuyện đăng lại những ý kiến đó. Riêng tôi thì không ngại. Trang này dành để đăng lại những bài viết, những luận điểm mà các nhà nghiên cứu, các bạn đọc phản biện lại các bài viết, các công trình nghiên cứu của tôi. Tôi không có ý định tranh luận, trao đổi ở đây, vì như vậy sẽ trùng lặp lại ý của những bài viết của mình đã Pots trước đây. Nếu bạn quan tâm thì xem lại các bài viết của tôi đối với từng chủ đề mà tôi đã trích dẫn ở đầu mỗi bài viết…
Phan Duy Kha
*
VẤN ĐỀ CỔ SỬ VIỆT NAM
Tác giả Thiên Sứ là người quan tâm đến cổ sử Việt Nam. Trên trang mạng Diễn Đàn Lý Học Phương Đông có đăng một bài viết dài của ông nhan đề TÍNH BẤT HỢP LÝ VÀ PHI KHOA HỌC CỦA NHỮNG LUẬN ĐIỂM PHỦ NHẬN VĂN HÓA SỬ TRUYỀN THỐNG VIỆT trong đó ông phê phán hầu hết quan điểm , luận điểm của các vị GS đầu ngành như GS Trần Quốc Vượng, GS Lê Văn Lan, GS Hà Văn Tấn, GS Hoàng Xuân Chinh…. Về phần tôi, Phan Duy Kha, tác giả cũng dành cho một bài viết dài, bài số 10 trong chuyên đề trên. Sau đây là toàn văn bài viết dành cho tôi, (có thể xem lại tại địa chỉ: diendan.lyhocdongphuong.org.vn)
*
Kính thưa quí vị quan tâm.
Đây là bài thứ 10 trong bộ sưu tập: “Những luận điểm phủ nhận văn hóa sử truyền thống”. Theo thông lệ, tôi lại đưa nguyên văn bài viết này lên đây trước khi tham khảo để quí vị quan tâm có điều kiện thuận lợi quán xét các vấn đề liên quan.
*
Những Làng Cổ Có Tên Là “Kẻ”
Phan Duy Kha tổng hợp
Dongtac.net
Nghiên cứu địa danh các làng xã cổ xưa của người Việt, chúng ta thấy có một hiện tượng đặc biệt. Đó là tên nhiều làng có từ “kẻ”. Thí dụ, ngay tại Hà Nội có Kẻ Noi (Cổ Nhuế), Kẻ Mọc (Nhân Mục), Kẻ Cót (Yên Quyết), Kẻ Mẩy (Mễ Trì) rồi Kẻ Bưởi, Kẻ Mơ, Kẻ Giàn, Kẻ Cáo… Kẻ là người, kẻ cũng là làng
Ngôn ngữ Việt cổ có từ kẻ mà ngày nay vẫn còn gây tranh cãi trong những người cầm bút. Thậm chí, có người từng lên án gay gắt việc dùng câu tục ngữ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Theo quan điểm của những người này thì kẻ là một từ chỉ người với nội dung xấu, như kẻ cắp, kẻ cướp, kẻ gian, kẻ thù… Vậy thì không thể dùng cụm từ “kẻ trồng cây” mà phải dùng cụm từ “người trồng cây” mới đúng chăng!
Thực ra, trong kho tàng ngôn ngữ Việt cổ, ông cha ta dùng hai từ kẻ và người không hề phân biệt. Có thể dẫn chứng hàng loạt thành ngữ, tục ngữ để minh chứng cho điều này. Thí dụ: kẻ trên người dưới; kẻ trước người sau; kẻ cười người khóc; kẻ tám lạng người nửa cân; kẻ vào người ra; kẻ ở người đi; kẻ giàu người nghèo… Trong tất cả những thành ngữ, tục ngữ đó, kẻ và người được đặt ngang nhau và nếu ta đem hoán vị giữa hai từ kẻ và người, ý nghĩa của thành ngữ, tục ngữ đó cũng không thay đổi. Vì vậy, chúng ta có thể yên tâm đặt một dấu “bằng” giữa kẻ và người (kẻ=người) mà không hề phải phân vân gì.
Nghiên cứu địa danh các làng xã cổ xưa của người Việt, chúng ta thấy có một hiện tượng đặc biệt. Đó là tên nhiều làng có từ “kẻ”. Thí dụ, ngay tại Hà Nội có Kẻ Noi (Cổ Nhuế), Kẻ Mọc (Nhân Mục), Kẻ Cót (Yên Quyết), Kẻ Mẩy (Mễ Trì) rồi Kẻ Bưởi, Kẻ Mơ, Kẻ Giàn, Kẻ Cáo… Có một điều chung nhất trong tất cả các làng mang tên kẻ này, đó đều là những làng cổ. Theo ý nghĩa của ngôn từ Việt cổ, có thể hiểu từ kẻ ở đây chỉ một cụm dân cư sống trên một địa bàn cụ thể. Thí dụ, Kẻ Noi = Người (ở làng) Noi; Kẻ Mọc = Người (ở làng) Mọc; Kẻ Bưởi = Người (ở làng) Bưởi… Để đơn giản, người ta hiểu: Kẻ Noi = làng Noi; Kẻ Mọc = làng Mọc; Kẻ Bưởi = làng Bưởi… Như vậy, ở đây kẻ được đồng nhất với làng.
Khi các triều đình phong kiến Trung Hoa sang xâm lược nước ta, để tiện lợi cho việc ghi chép vào giấy tờ, sách vở (theo chữ Hán), mỗi làng lại phải đặt một tên chữ (âm Hán – Việt). Khác với tên Nôm chỉ có một từ (không kể từ Kẻ đứng trước), tên chữ thường có ít nhất là hai từ. Như vậy, những làng cổ ra đời trước thời Bắc thuộc, nhất thiết phải có hai tên, một tên Nôm (kèm Kẻ) và một tên chữ. Những làng ra đời trong thời kỳ phong kiến thường chỉ có tên chữ, không có tên nôm và không có Kẻ. Đó là tiêu chí để ta phân biệt những làng cổ ra đời trước thời Bắc thuộc và những làng mới được thành lập sau này.
Trong việc đặt tên làng xã của Việt Nam, ta lại thấy có hiện tượng đặt tên làng theo tên dòng họ, như Nguyễn Xá, Hoàng Xá, Phan Xá, Bùi Xá… Xá là một từ Hán – Việt chỉ nơi cư trú: Nguyễn Xá là nơi cư trú của những người họ Nguyễn, Hoàng Xá là nơi cư trú của những người họ Hoàng… Trong những làng mang tên Xá như vậy cũng có những dòng họ khác sinh sống. Tuy nhiên, dòng họ mà làng mang tên dòng họ lớn nhất, có vị thế chủ đạo, có ảnh hưởng lớn đến sinh hoạt vật chất và văn hóa tinh thần của cả làng. Từ nguồn gốc hình thành và tên gọi của nó, các làng mang tên Xá không thể ra đời trước thời điểm các triều đình phong kiến Trung Hoa sang đô hộ nước ta. Như vậy, trong hệ thống địa danh các làng cổ Việt Nam, những làng có Kẻ là những làng xuất hiện sớm nhất. Có thể coi đó là những địa bàn định cư, những đơn vị cơ sở đầu tiên của thời Hùng Vương dựng nước. Trong một cuốn địa chí văn hóa của xứ Thanh, làng có Kẻ chiếm 24%; làng không Kẻ chiếm 76% (trong đó bao gồm làng có Xá, làng do di dân lập ấp trong thời phong kiến, làng do đất phong và các trại khai hoang xưa, nay đã thành làng). Như vậy, với một vùng đất cổ như Thanh Hóa, có đến 24% số làng xuất hiện từ thời Hùng Vương dựng nước.
Sự phân bố các làng Kẻ trên bản đồ Việt Nam
Những vùng làng có tên Kẻ được tập trung vào ba trung tâm chính:
1. Trung tâm núi Hồng – sông Lam: Đây là một vùng có nhiều làng cổ có tên là Kẻ. Phạm vi những làng này nằm trong vùng đồng bằng và vùng ven chân núi phía nam Nghệ An, phía bắc Hà Tĩnh mà dày đặc nhất là vùng ven núi Hồng – sông Lam. ở đây có những huyện mà số làng tên Kẻ chiếm đến 2/3 (tức hơn 60%) tổng số các làng, như huyện Can Lộc (Hà Tĩnh). Các huyện Nghi Xuân, Đức Thọ, Thạch Hà, Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh), Thanh Chương, Đô Lương, Anh Sơn, Nam Đàn, Nghi Lộc, Nghĩa Đàn, Quỳnh Lưu (Nghệ An) có nhiều làng Kẻ. Các di tích khảo cổ chủ yếu như Thạch Lạc, Làng Vạc, Quỳnh Văn nằm trong phạm vi vùng Kẻ này. Đi về phía nam, các làng Kẻ ít dần. Vùng Bình – Trị – Thiên cũng có Kẻ nhưng thưa thớt hơn. Phía nam đèo Hải Vân, các Kẻ còn thấy xuất hiện đến tận Quảng Nam, Quảng Ngãi
2. Trung tâm Đông Sơn (Thanh Hóa): Đây cũng là một vùng dày đặc các làng tên Kẻ. Phạm vi bao gồm các huyện nằm ven chân núi và vùng đồng bằng sông Mã, sông Chu như: Đông Sơn, Thiệu Yên, Triệu Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hóa, Quảng Xương, Hà Trung, Nông Cống. Các làng Kẻ làm thành một vệt liên tục từ Kẻ Don (Vĩnh Lộc) xuống Kẻ Đàng (Thiệu Yên). Các di tích khảo cổ chủ yếu của thời đại đồng thau như Đông Sơn, Thiệu Dương, Hoằng Hóa… nằm trong phạm vi khu vực này. Có một điều đặc biệt lý thú là toàn bộ huyện Nga Sơn không hề có một làng tên Kẻ nào (trong lúc đó, các huyện bên cạnh đều có làng Kẻ!). Điều này hoàn toàn phù hợp với truyền thuyết Mai An Tiêm: vào thời vua Hùng, toàn bộ vùng này đang nằm sâu dưới biển, chỉ nhô lên một vài hòn đảo (Mai An Tiêm bị đày ra đảo hoang ở Nga Sơn theo truyền thuyết).
3. Trung tâm Việt Trì – Phong Châu: Đây là trung tâm của thời kỳ các vua Hùng. Những làng mang tên Kẻ ở đây phân bố ven theo chân núi Ba Vì, Tam Đảo và dọc theo châu thổ sông Hồng từ Phong Châu, Việt Trì xuống đến phạm vi thủ đô Hà Nội. Các huyện Phong Châu, Thanh Sơn, Sông Thao, thành phố Việt Trì (Phú Thọ), Lập Thạch, Tam Đảo, Vĩnh Lạc, Mê Linh (Vĩnh Phúc), Sóc Sơn, Đông Anh, Từ Liêm, Gia Lâm (Hà Nội) đều có nhiều làng Kẻ. Những làng có đền thờ các nhân vật thời Hùng Vương, những làng lưu truyền các truyền thuyết về các tướng tá thời Hùng, thường là những làng mang tên Kẻ. Những di chỉ khảo cổ chủ yếu như Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun… nằm trong khu vực này. Đền Hùng ở cạnh một làng mang tên Kẻ: Kẻ Khống (Chu Hóa, Phong Châu); Cổ Loa là Kẻ Chủ; quê hương của người anh hùng Thánh Gióng là Kẻ Đổng (Phù Đổng, Gia Lâm). Toàn bộ vùng Kẻ ở khu vực này tạo thành một hình tam giác, lệch về góc đông nam. ở rìa của góc đông nam đó là vùng Trâu Sơn – Phả Lại, là nơi kẻ thù thường xâm phạm. Đó chính là bối cảnh của chiến trường Thánh Gióng đánh giặc Ân trong truyền thuyết. Vùng đất thủ đô Hà Nội cũng là một vùng đất cổ, trên đó dày đặc các làng có tên Kẻ như chúng tôi đã trích dẫn ở phần đầu. Có nhiều Kẻ ở ngoại thành, có những Kẻ bây giờ thuộc nội thành như Kẻ Bưởi, Kẻ Mơ…
Ở phía nam Hà Nội vắng hẳn các làng tên Kẻ. Theo một số tài liệu nghiên cứu thì cách đây 3.000 năm, đường bờ biển ở vào khoảng Chương Mỹ, Thường Tín, nối đến thành phố Hải Dương ngày nay (lúc ấy, vùng núi đá vôi Nho Quan – Ninh Bình có phong cảnh như vịnh Hạ Long bây giờ). Cách đây 2.000 năm, đường bờ biển lùi xuống Ninh Bình, Nam Định. Như vậy thì vào thời Hùng Vương, vùng đất phía nam Hà Nội đang là bãi cát bồi ven biển, chưa được khai phá. Điều đó cắt nghĩa vì sao ở đây không có các làng tên Kẻ. Điều này cũng phù hợp với truyền thuyết Chử Đồng Tử – Tiên Dung: đây là lãnh thổ đang “tranh chấp” giữa con người và thiên nhiên, chưa có những khu vực dân cư ổn định (các tên Chử Xá, Dạ Trạch là các tên Hán – Việt do đời sau đặt).
Kinh đô Văn Lang
Trong thư Hoài Nam Vương gửi Hán Vũ Đế (thế kỷ 2 trước Công nguyên) có ghi: “Nam Việt không phải là nơi ấp lý có thành quách. Họ ở trong khoảng khe suối, ở giữa rừng tre” (Hoài Nam Tử). Có thể thấy: ngay từ xưa, người Việt đã ở trong các làng có lũy tre dày đặc bao bọc (người Trung Hoa nhìn từ ngoài vào, không hiểu, cho là rừng tre). Tre là lũy để bảo vệ an toàn cho các Kẻ, chứ không cần phải thành quách. Với trình độ kỹ thuật quân sự xưa, chỉ có tên tre và mũi lao, mũi giáo bằng đồng thì lũy tre dày đặc bao quanh các Kẻ quả là kiên cố. Bên trong các Kẻ đó lại có các lũy tre phân chia từng gia đình thành từng ô nhỏ. Vì vậy, nếu kẻ thù đột nhập vào đây sẽ như lọt vào trận đồ bát quái, khó có thể tìm được lối ra và sẽ bị tiêu diệt. Vì vậy, chúng ta có thể khẳng định: vào thời kỳ Hùng Vương, người Việt chưa có thành quách và cũng không có nhu cầu xây đắp thành. Ngay kinh đô Văn Lang của các vua Hùng có thể cũng chỉ là một Làng Lớn (Làng Cả – Kẻ Cả) mà thôi (các nhà khảo cổ cho rằng khu di tích Làng Cả – Việt Trì chính là kinh đô Văn Lang xưa).
Tất nhiên, vào thời vua Hùng không phải chỉ có Kẻ. Kẻ chỉ ở đồng bằng và vùng đồi núi thấp. ở những vùng cao có các bản, mường. Ngay gần kinh đô Văn Lang cũng có rất nhiều bản, mường của người Mường, người Dao. Có thể nói: những kẻ, bản, mường đó là những tập hợp cư dân, những đơn vị cơ sở đầu tiên của thời kỳ Hùng Vương dựng nước.
Phan Duy Kha tổng hợp
ẤN TƯỢNG VỚI PHAN DUY KHA
Cũng như với Trần Quốc Vượng, tôi chưa hề gặp người này, mà chỉ biết cái tên ông ta qua những bài viết liên quan đến cổ sử Việt khi sưu tầm tư liệu để viết sách trước đây. Người này viết khá nhiều bài trên tờ “Thế Giới Mới” trong chuyên mục của tập san này là “Nhìn lại lịch sử” vào khoảng từ 97 đến những năm sau đó. Có thể nói rằng, những bài viết của ông ta gây sự xúc phạm mạnh mẽ đến ý thức về cội nguồn dân tộc trong tôi. Vài năm sau, tập san Thế Giới Mới sau này giành hằn một buổi tọa đàm và tôn vinh người này như là một người dũng cảm, dám xét lại cội nguồn truyền thống dân tộc Việt. Vào khoảng năm 99 đến 2000, tôi có tóm tắt và trích gửi lên Thế Giới Mới một bài viết nhằm minh chứng những giá trị truyền thống Việt. Tất nhiên bài này không được đăng. Nếu có điều kiện, quí vị có thể tham khảo những bài viết của Phan Duy Kha trên Thế Giới Mới trong các năm nói trên. Tôi rất tiếc là trong lúc không lấy gì làm dư dả lắm, vợ tôi đã bán toàn bộ những cuốn Kiên Thức Ngày Nay và Thế giới mới mà tôi sưu tập trong nhiều năm – khoảng gần 100 cuốn với giá 30. 000 VND vào năm 2003. Đây là con số rất chính xác, vì ấn tượng sâu sắc trong hoàn cảnh bấy giờ buộc tôi phải chấp nhận bán. Nếu không thì chắc chắn những bài viết “pha học” đó sẽ được đánh máy và đưa vào bộ sưu tập trong topic “Những luận điểm phủ nhận văn hóa sử truyền thống Việt”.
Chính vì vậy, tôi rất nhậy cảm với danh từ riêng Phan Duy Kha. Cho đến khi hội thào thơ Ngân Giang gần đây, tôi được mời tham gia với tư cách là thành viên trong gia đình Ngân Giang và được khuyến khích viết một bài tham gia với các cao nhân, trí giả Bắc Hà. Nhưng do tình cờ, tôi thấy trong danh sách những bài tham luận có tên tác giả Phan Duy Kha. Sau khi tìm hiểu qua ban tổ chức, tôi biết Phan Duy Kha có bài tham luận trong hội thảo thơ Ngân Giang và Phan Duy Kha viết bài trên Thế Giới Mới chỉ là một người. Tôi xin rút lui không tham gia – dù chỉ với tư cách là khách đến ngồi nghe trong hội thảo thơ Ngân Giang.
Cuối cùng, tôi vẫn tham gia hội thảo và không có Phan Duy Kha. Tôi hỏi anh tôi: “Em có cực đoan quá không?”. Anh btôi nói: “Chú rất cương quyết với quan điểm của chú!”.
Dù gọi là cái gì: Cương quyết hay cực đoan, thì đấy là sự thật đã xảy ra. Về quan hệ cá nhân thì tôi không có mâu thuẫn gì về quyền lợi với họ. Thậm chí chưa gặp dù chỉ một lần.
Kính thưa quí vị quan tâm
Không phải ngẫu nhiên mà tôi xếp bài này vào topic “Sưu tầm những luận điểm phủ nhận văn hóa sử truyền thống Việt”. Mới nhìn qua thì dễ lầm tưởng ông Phan Duy Kha chỉ phân tích từ “kẻ” trong mối liên hệ với làng cổ Việt. Rất hiền lành. Nhưng rất tiếc, ngoài cái vỏ hiền lành đó lại là sự phủ nhận những giá trị văn hóa truyền thống Việt. Điều này sẽ được chứng minh ngay trong bài viết này – hoặc loạt bài viết này.
Cảm ơn sự quan tâm của quí vị.
*
PHẢN BIỆN BÀI VIẾT CỦA PHAN DUY KHA
Ngay từ cái tựa, ông Phan Duy Kha viết:.
Quote
Những Làng Cổ Có Tên Là “Kẻ”
Phan Duy Kha tổng hợp
Dongtac.net
Kẻ là một danh từ chung. Vậy làm sao lại đặt cái tựa khó hiểu như vậy?
Quote
Những làng cổ có tên là “Kẻ”.
Vậy làng cổ nào có tên là “Kẻ”? Xem cả bài viết chẳng thấy ông Phan Duy Kha dẫn được một làng cổ nào là “Làng Kẻ” cả. Nhưng thôi. Coi như là chuyện “sai chính tả” bỏ qua chuyện này. Bây giờ chúng ta xem xét những nội dung của bài viết:
Quote
Nghiên cứu địa danh các làng xã cổ xưa của người Việt, chúng ta thấy có một hiện tượng đặc biệt. Đó là tên nhiều làng có từ “kẻ”. Thí dụ, ngay tại Hà Nội có Kẻ Noi (Cổ Nhuế), Kẻ Mọc (Nhân Mục), Kẻ Cót (Yên Quyết), Kẻ Mẩy (Mễ Trì) rồi Kẻ Bưởi, Kẻ Mơ, Kẻ Giàn, Kẻ Cáo… Kẻ là người, kẻ cũng là làng
Ngôn ngữ Việt cổ có từ kẻ mà ngày nay vẫn còn gây tranh cãi trong những người cầm bút. Thậm chí, có người từng lên án gay gắt việc dùng câu tục ngữ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Theo quan điểm của những người này thì kẻ là một từ chỉ người với nội dung xấu, như kẻ cắp, kẻ cướp, kẻ gian, kẻ thù… Vậy thì không thể dùng cụm từ “kẻ trồng cây” mà phải dùng cụm từ “người trồng cây” mới đúng chăng!
Thực ra, trong kho tàng ngôn ngữ Việt cổ, ông cha ta dùng hai từ kẻ và người không hề phân biệt. Có thể dẫn chứng hàng loạt thành ngữ, tục ngữ để minh chứng cho điều này. Thí dụ: kẻ trên người dưới; kẻ trước người sau; kẻ cười người khóc; kẻ tám lạng người nửa cân; kẻ vào người ra; kẻ ở người đi; kẻ giàu người nghèo… Trong tất cả những thành ngữ, tục ngữ đó, kẻ và người được đặt ngang nhau và nếu ta đem hoán vị giữa hai từ kẻ và người, ý nghĩa của thành ngữ, tục ngữ đó cũng không thay đổi. Vì vậy, chúng ta có thể yên tâm đặt một dấu “bằng” giữa kẻ và người (kẻ=người) mà không hề phải phân vân gì.
Nghiên cứu địa danh các làng xã cổ xưa của người Việt, chúng ta thấy có một hiện tượng đặc biệt. Đó là tên nhiều làng có từ “kẻ”. Thí dụ, ngay tại Hà Nội có Kẻ Noi (Cổ Nhuế), Kẻ Mọc (Nhân Mục), Kẻ Cót (Yên Quyết), Kẻ Mẩy (Mễ Trì) rồi Kẻ Bưởi, Kẻ Mơ, Kẻ Giàn, Kẻ Cáo… Có một điều chung nhất trong tất cả các làng mang tên kẻ này, đó đều là những làng cổ. Theo ý nghĩa của ngôn từ Việt cổ, có thể hiểu từ kẻ ở đây chỉ một cụm dân cư sống trên một địa bàn cụ thể. Thí dụ, Kẻ Noi = Người (ở làng) Noi; Kẻ Mọc = Người (ở làng) Mọc; Kẻ Bưởi = Người (ở làng) Bưởi… Để đơn giản, người ta hiểu: Kẻ Noi = làng Noi; Kẻ Mọc = làng Mọc; Kẻ Bưởi = làng Bưởi… Như vậy, ở đây kẻ được đồng nhất với làng.
Tôi không phải là nhà ngôn ngữ học. Bởi vậy những từ chuyên môn về ngôn ngữ học tôi không rành. Môn Ngôn Ngữ học ở Văn khoa mà tôi theo học ngày xưa – thật tình tôi chỉ học trong có 45 phút *, nên cũng chẳng có gì để gọi là uyên bác. Nhưng với cách lập luận của ông Phan Duy Kha thấy lủng củng quá, nên tôi phải phân tích một chút đoạn này, mà đáng lẽ tôi không nên quan tâm. Đó là khái niệm “kẻ” trong ngôn ngữ cổ Việt không phải đơn giản chỉ có nghĩa là “người”, mà cũng không đơn giản có nghĩa là “làng” như ông Phan Duy Kha thống kê và kết luận vũ đoán ở trên. Mà từ “kẻ” mang một khái niệm phức hợp hơn. Nó có nghĩa là “người ở … (vị trí, hay vùng nào đó)”. Ở vùng thôn quê thì gọi người thành thị là “kẻ chợ”, ở thành thị thì gọi là “kẻ quê”. Với hai thí dụ này – quí vị có thể tìm thấy ở những người rất lớn tuổi trong những vùng quê xa thành thị, có thể vẫn còn dùng. Hồi còn trẻ, tôi còn nghe được những từ cổ hơn mà nói ra bây giờ có lẽ cũng ít người hiểu: ” Ông ở đống nào?”. Tất nhiên tôi không ở “Đống” rác. Nhưng tôi hiểu ngay và trả lời. Tôi ở đống Hoàn Kiếm. Cụ già hỏi tôi gật gù “Vậy là ông là kẻ chợ rồi”. Nhưng cũng không vì thế mà tôi vũ đoán kết luận đống là vùng, là quận, là khu được. Khái niệm “đống” giới hạn hơn khái niệm vùng rất nhiều. Nó thể hiện một khái niệm giới hạn địa lý có thể rất nhỏ. Thí dụ: Người ở trong 1 làng hỏi nhau có thể trả lời “tôi ở Ấp 1” cũng được, hoặc “đống 1” cũng được. Hoặc người trong cùng một địa danh liên quan đến nhau – thí dụ như: Láng Thượng, Láng Trung, Láng Hạ – thì người Láng Thượng hỏi, người Láng Hạ có thể trả lời “Tôi ở đống Hạ”. Nhưng với người kẻ Mọc hỏi thì người “đống” Hạ không thể trả lời “Tôi ở đống Hạ” được. Việc ông Phan Duy Kha vũ đoán kết luận: “kẻ” là “người”, “kẻ” là “làng” thì thật khôi hài. Vậy “người làng Láng” có thể nói là “kẻ kẻ Láng” hay sao? Hoặc – cứ theo ông này – thì có thể nói là “Làng làng Láng”!?. Híc! Chán thật. Vậy mà thật tiếc cho Dongtac.com là một trang web học thuật có uy tín mà lại đang tải những bài “ngâm cứu” tệ đến như vậy. Nhưng thôi. Cũng coi như lỗi chính tả.
Ông Phan Duy Kha viết:Quote
Khi các triều đình phong kiến Trung Hoa sang xâm lược nước ta, để tiện lợi cho việc ghi chép vào giấy tờ, sách vở (theo chữ Hán), mỗi làng lại phải đặt một tên chữ (âm Hán – Việt). Khác với tên Nôm chỉ có một từ (không kể từ Kẻ đứng trước), tên chữ thường có ít nhất là hai từ. Như vậy, những làng cổ ra đời trước thời Bắc thuộc, nhất thiết phải có hai tên, một tên Nôm (kèm Kẻ) và một tên chữ. Những làng ra đời trong thời kỳ phong kiến thường chỉ có tên chữ, không có tên nôm và không có Kẻ. Đó là tiêu chí để ta phân biệt những làng cổ ra đời trước thời Bắc thuộc và những làng mới được thành lập sau này.
Lại áp đặt. Bản thân ông ta đã hiểu sai khái niệm của từ “kẻ” như tôi trình bày ở trên. Thì cái tiêu chí mà ông ta đưa ra tự nó đã sai từ cách đạt vấn đề của ông ta. Trong ngôn ngữ Việt – các cụ nhà ta đôi khi rất vắn tắt cách gọi địa danh. Thí dụ: “Người ở làng Cổ Nhuế” thì các cụ chỉ vắn tắt một câu: “Kẻ Nhuế”. Ngày tôi còn bé đi tàu hỏa ra Hải Phòng, thấy hai bà hỏi nhau: “Bà đi đâu?” – “Tôi về Phòng”. Xong. Bởi vậy cái gọi là tiêu chí của ông Phan Duy Kha cũng cần xem lại.
Ông Phan Duy Kha cho rằng: Vì cần có từ Hán nên các làng Việt phải đặt tên Hán? Vậy thì người Hán phải đặt tên lại cho tất cả các làng xã Việt khi họ cai trị chăng? Tiếng Hán không đủ phiên âm và thể hiện các danh từ Việt chăng? Híc. Âm Hán Việt cho chữ Hán và cách phát âm chữ đó của tiếng Hán rất khác nhau. Làm gì phải thay cho nó phức tạp quá vậy?Quote
Trong việc đặt tên làng xã của Việt Nam, ta lại thấy có hiện tượng đặt tên làng theo tên dòng họ, như Nguyễn Xá, Hoàng Xá, Phan Xá, Bùi Xá… Xá là một từ Hán – Việt chỉ nơi cư trú: Nguyễn Xá là nơi cư trú của những người họ Nguyễn, Hoàng Xá là nơi cư trú của những người họ Hoàng… Trong những làng mang tên Xá như vậy cũng có những dòng họ khác sinh sống. Tuy nhiên, dòng họ mà làng mang tên dòng họ lớn nhất, có vị thế chủ đạo, có ảnh hưởng lớn đến sinh hoạt vật chất và văn hóa tinh thần của cả làng. Từ nguồn gốc hình thành và tên gọi của nó, các làng mang tên Xá không thể ra đời trước thời điểm các triều đình phong kiến Trung Hoa sang đô hộ nước ta. Như vậy, trong hệ thống địa danh các làng cổ Việt Nam, những làng có Kẻ là những làng xuất hiện sớm nhất. Có thể coi đó là những địa bàn định cư, những đơn vị cơ sở đầu tiên của thời Hùng Vương dựng nước. Trong một cuốn địa chí văn hóa của xứ Thanh, làng có Kẻ chiếm 24%; làng không Kẻ chiếm 76% (trong đó bao gồm làng có Xá, làng do di dân lập ấp trong thời phong kiến, làng do đất phong và các trại khai hoang xưa, nay đã thành làng). Như vậy, với một vùng đất cổ như Thanh Hóa, có đến 24% số làng xuất hiện từ thời Hùng Vương dựng nước.
Híc! Lại võ đoán. Ông tự cho “Xá” là nơi cư trú và là từ Hán Việt. Và ông kết luận tất cả những làng có chữ “Xá” đều là có từ thời Bắc thuộc về sau. Vậy tôi cứ xin hỏi nôm như sau: Vậy từ “trạm xá” là nơi cư trú của cái trạm chăng? hoặc từ “cư xá’ là thừa chữ chăng? Đúng ra tôi ít quan tâm đến những bài nghiên cứu chữ nghĩa kiểu này – Nếu như nó chẳng dính gì đến thời Hùng Vương côi nguồn lịch sử của dân tộc Việt. Nhưng quí vị cũng thấy : Đến đây thì từ việc đặt vấn đề về kẻ, làng, xá…ông Phan Duy Kha đã liên hệ đến thời Hùng Vương. Với cách áp đặt rất chủ quan và khiên cưỡng phi khoa học như trên , Tất yếu ông ta sẽ có những nhận xét méo mó về cội nguồn dân tộc Việt – như các bài viết của ông ta trên “Thế Giới Mới” – Điều này tôi sẽ minh chứng sau đây.
* Chú thích: Tôi học môn ngôn ngữ học hết 45 phút. Cái sự tích nó như thế này: Khi tôi ghi danh học Văn Khoa thì tôi chỉ ghi vậy thôi và chẳng bao giờ sách cặp đến lớp học cả. Tôi ở Bến Tre, cách Sài Gòn hơn 100 Km. Tôi còn phải kiếm sống và lúc đó tôi cũng hơn 40 tuổi rồi. Nên khi sắp đến kỳ thi cứ ba tháng 1 lần thì các bạn tôi viết thư về báo cho tôi biết ngày thi và các môn thi. Tôi lên Sài gòn cách ngày thi khoảng 2 đến 3 ngày mua tài liệu và bắt đầu học môn đầu tiên. Mỗi môn thi cách nhau hai ngày và vào buổi tối. Thi xong môn thứ nhất thì tranh thủ ngày cách đó tôi học môn thứ hai…Khốn khổ cho tôi. Hôm đó vì lý do nào đó tôi không nhớ, họ thay đổi lịch thi. Thay vì thi môn văn học dân gian thì lại là thi ngôn ngữ học – Đáng lẽ môn này thi sau. Cũng may tôi đến phòng thi sớm 45 phút. Tôi vội mượn ngay cuốn tập chép của bạn và xem ngốn ngấu. Tôi không phải thi lại là may mắn hơn nhiều các bạn đồng lớp với tôi. Nhưng vì học kiểu đó nên tôi thực sự chằng nhớ gì cả.Kính thưa quí vị quan tâm.
Trong bài trước tôi đã chứng minh sự võ đoán và áp đạt tiêu chí không có cơ sở khoa học của ông Phan Duy Kha. Tất nhiên khi đã đặt vấn đề từ một cái sai thì tất yếu những phân tích và kết luận của ông ta sẽ sai. Tôi tiếp tục minh chứng điều này trong phần tiếp theo đây.*
Ông Phan Duy Kha viết:
Quote
Sự phân bố các làng Kẻ trên bản đồ Việt Nam
Những vùng làng có tên Kẻ được tập trung vào ba trung tâm chính:
1. Trung tâm núi Hồng – sông Lam: Đây là một vùng có nhiều làng cổ có tên là Kẻ. Phạm vi những làng này nằm trong vùng đồng bằng và vùng ven chân núi phía nam Nghệ An, phía bắc Hà Tĩnh mà dày đặc nhất là vùng ven núi Hồng – sông Lam. ở đây có những huyện mà số làng tên Kẻ chiếm đến 2/3 (tức hơn 60%) tổng số các làng, như huyện Can Lộc (Hà Tĩnh). Các huyện Nghi Xuân, Đức Thọ, Thạch Hà, Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh), Thanh Chương, Đô Lương, Anh Sơn, Nam Đàn, Nghi Lộc, Nghĩa Đàn, Quỳnh Lưu (Nghệ An) có nhiều làng Kẻ. Các di tích khảo cổ chủ yếu như Thạch Lạc, Làng Vạc, Quỳnh Văn nằm trong phạm vi vùng Kẻ này. Đi về phía nam, các làng Kẻ ít dần. Vùng Bình – Trị – Thiên cũng có Kẻ nhưng thưa thớt hơn. Phía nam đèo Hải Vân, các Kẻ còn thấy xuất hiện đến tận Quảng Nam, Quảng Ngãi
2. Trung tâm Đông Sơn (Thanh Hóa): Đây cũng là một vùng dày đặc các làng tên Kẻ. Phạm vi bao gồm các huyện nằm ven chân núi và vùng đồng bằng sông Mã, sông Chu như: Đông Sơn, Thiệu Yên, Triệu Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hóa, Quảng Xương, Hà Trung, Nông Cống. Các làng Kẻ làm thành một vệt liên tục từ Kẻ Don (Vĩnh Lộc) xuống Kẻ Đàng (Thiệu Yên). Các di tích khảo cổ chủ yếu của thời đại đồng thau như Đông Sơn, Thiệu Dương, Hoằng Hóa… nằm trong phạm vi khu vực này. Có một điều đặc biệt lý thú là toàn bộ huyện Nga Sơn không hề có một làng tên Kẻ nào (trong lúc đó, các huyện bên cạnh đều có làng Kẻ!). Điều này hoàn toàn phù hợp với truyền thuyết Mai An Tiêm: vào thời vua Hùng, toàn bộ vùng này đang nằm sâu dưới biển, chỉ nhô lên một vài hòn đảo (Mai An Tiêm bị đày ra đảo hoang ở Nga Sơn theo truyền thuyết).
3. Trung tâm Việt Trì – Phong Châu: Đây là trung tâm của thời kỳ các vua Hùng. Những làng mang tên Kẻ ở đây phân bố ven theo chân núi Ba Vì, Tam Đảo và dọc theo châu thổ sông Hồng từ Phong Châu, Việt Trì xuống đến phạm vi thủ đô Hà Nội. Các huyện Phong Châu, Thanh Sơn, Sông Thao, thành phố Việt Trì (Phú Thọ), Lập Thạch, Tam Đảo, Vĩnh Lạc, Mê Linh (Vĩnh Phúc), Sóc Sơn, Đông Anh, Từ Liêm, Gia Lâm (Hà Nội) đều có nhiều làng Kẻ. Những làng có đền thờ các nhân vật thời Hùng Vương, những làng lưu truyền các truyền thuyết về các tướng tá thời Hùng, thường là những làng mang tên Kẻ. Những di chỉ khảo cổ chủ yếu như Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun… nằm trong khu vực này. Đền Hùng ở cạnh một làng mang tên Kẻ: Kẻ Khống (Chu Hóa, Phong Châu); Cổ Loa là Kẻ Chủ; quê hương của người anh hùng Thánh Gióng là Kẻ Đổng (Phù Đổng, Gia Lâm). Toàn bộ vùng Kẻ ở khu vực này tạo thành một hình tam giác, lệch về góc đông nam. ở rìa của góc đông nam đó là vùng Trâu Sơn – Phả Lại, là nơi kẻ thù thường xâm phạm. Đó chính là bối cảnh của chiến trường Thánh Gióng đánh giặc Ân trong truyền thuyết. Vùng đất thủ đô Hà Nội cũng là một vùng đất cổ, trên đó dày đặc các làng có tên Kẻ như chúng tôi đã trích dẫn ở phần đầu. Có nhiều Kẻ ở ngoại thành, có những Kẻ bây giờ thuộc nội thành như Kẻ Bưởi, Kẻ Mơ…
Ở phía nam Hà Nội vắng hẳn các làng tên Kẻ. Theo một số tài liệu nghiên cứu thì cách đây 3.000 năm, đường bờ biển ở vào khoảng Chương Mỹ, Thường Tín, nối đến thành phố Hải Dương ngày nay (lúc ấy, vùng núi đá vôi Nho Quan – Ninh Bình có phong cảnh như vịnh Hạ Long bây giờ). Cách đây 2.000 năm, đường bờ biển lùi xuống Ninh Bình, Nam Định. Như vậy thì vào thời Hùng Vương, vùng đất phía nam Hà Nội đang là bãi cát bồi ven biển, chưa được khai phá. Điều đó cắt nghĩa vì sao ở đây không có các làng tên Kẻ. Điều này cũng phù hợp với truyền thuyết Chử Đồng Tử – Tiên Dung: đây là lãnh thổ đang “tranh chấp” giữa con người và thiên nhiên, chưa có những khu vực dân cư ổn định (các tên Chử Xá, Dạ Trạch là các tên Hán – Việt do đời sau đặt).
Qua đoạn trích dẫn trên thì có vẻ như ông Phan Duy Kha chỉ thống kê những địa danh không gọi là làng mà bắt đầu bằng “kẻ”. Nhưng thực chất lại không phải như vậy. Ông Phan Duy Kha đã lồng vào đấy những quan điểm phủ nhận giá trị văn hóa sử Việt cho rằng: Nước Văn Lang chỉ giới hạn lãnh thổ ở vùng đồng bằng sông Hồng.
Nhưng rất tiếc cho ông ta là sự thống kê những địa danh bắt đầu bằng từ “kẻ” không thể coi là bằng chứng minh chứng cho giới hạn lịch sử của nước Văn Lang chỉ ở vùng đồng bằng sông Hồng. Bởi vì – mặc dù từ “kẻ” là một di sản văn hóa phi vật thể – nhưng nó chỉ giới hạn là một từ cổ còn lại trong ngôn ngữ Việt thuộc cộng đồng dân tộc Việt hiện hữu còn giữ lại được những bản sắc văn hóa. Nó không phải và chưa bao giờ là một bằng chứng để thẩm định biên giới quốc gia của dân tộc đó trong quá khứ. Ông ta cố gắng lồng những địa danh mà ông cho rằng phản ánh lịch sử như: Phú Thọ là kinh đô Văn Lang; hoặc Nga Sơn với Mai An Tiêm..vv..mà ông ta cho rằng theo truyền thuyết. Nhưng chính những người đồng quan điểm với ông ta lại bắt đầu sự phủ nhận giá trị truyền thống văn hóa Việt bằng luận điểm cho rằng truyền thuyết không đáng tin cậy. Thì ở đây – trong trường hợp cụ thể này – thì truyền thuyết lại được ông Phan Duy Kha liên hệ khá chặt chẽ với các địa danh gọi là “kẻ” để minh chứng cho quan điểm của mình?!
Đây chính là tính không nhất quán của quan điểm phủ nhận giá trị văn hóa sử truyền thống Việt. Nhất quán là một yếu tố cần trong tiêu chí khoa học cho một giả thiết khoa học.
Ông Phan Duy Kha viết:
Quote
Kinh đô Văn Lang
Trong thư Hoài Nam Vương gửi Hán Vũ Đế (thế kỷ 2 trước Công nguyên) có ghi: “Nam Việt không phải là nơi ấp lý có thành quách. Họ ở trong khoảng khe suối, ở giữa rừng tre” (Hoài Nam Tử). Có thể thấy: ngay từ xưa, người Việt đã ở trong các làng có lũy tre dày đặc bao bọc (người Trung Hoa nhìn từ ngoài vào, không hiểu, cho là rừng tre). Tre là lũy để bảo vệ an toàn cho các Kẻ, chứ không cần phải thành quách. Với trình độ kỹ thuật quân sự xưa, chỉ có tên tre và mũi lao, mũi giáo bằng đồng thì lũy tre dày đặc bao quanh các Kẻ quả là kiên cố. Bên trong các Kẻ đó lại có các lũy tre phân chia từng gia đình thành từng ô nhỏ. Vì vậy,
nếu kẻ thù đột nhập vào đây sẽ như lọt vào trận đồ bát quái, khó có thể tìm được lối ra và sẽ bị tiêu diệt. Vì vậy, chúng ta có thể khẳng định: vào thời kỳ Hùng Vương, người Việt chưa có thành quách và cũng không có nhu cầu xây đắp thành. Ngay kinh đô Văn Lang của các vua Hùng có thể cũng chỉ là một Làng Lớn (Làng Cả – Kẻ Cả) mà thôi (các nhà khảo cổ cho rằng khu di tích Làng Cả – Việt Trì chính
là kinh đô Văn Lang xưa).Đến đây thì quí vị quan tâm cũng nhận thấy lý do nào tôi đưa bài viết của Phan Duy Kha vào danh sách “Sưu tầm những luận điểm phủ nhận văn hóa sử truyền thống Việt”. Ông ta cho rằng:
Quote
Ngay kinh đô Văn Lang của các vua Hùng có thể cũng chỉ là một Làng Lớn (Làng Cả – Kẻ Cả) mà thôi (các nhà khảo cổ cho rằng khu di tích Làng Cả – Việt Trì chính là kinh đô Văn Lang xưa).
. Hay nói cách khác: Ông ta đã minh chứng rằng ngay cả cái Kinh đô Văn Lang cũng chỉ là một làng bình thường như những làng xã khác. Có nghĩa là nó không đủ tư cách là thủ đô của một quốc gia. Đây chính là kết luận cuối cùng của ông ta trong bài viết này. Một lần nữa thật không may cho ông khi ngay chính tư liệu ông dẫn chứng – và có lẽ cố tình hiểu sai – lại không có nội dung như ông vũ đoán áp đặt nội dung cho nó để minh chứng cho quan điểm của ông và “hầu hết những nhà khoa học trong nước”. Chúng ta xem lại chính đoạn bản văn tư liệu mà ông ta dẫn từ sách “Hoài Nam tử”:
Quote
Trong thư Hoài Nam Vương gửi Hán Vũ Đế (thế kỷ 2 trước Công nguyên) có ghi: “Nam Việt không phải là nơi ấp lý có thành quách. Họ ở trong khoảng khe suối, ở giữa rừng tre” (Hoài Nam Tử).
Vâng ! “Không phải là nơi ấp lý có thành quách”. Điều này tôi có thể nói rằng: Trong lịch sử tất cả các quốc gia trên thế giới thì chẳng có quốc gia nào mà “ấp lý” lại có “thành quách ” cả. Và dù bạn hiểu theo cách nào thì bản văn tư liệu trên cũng không thể minh chứng cho luận điểm của ông Phan Duy Kha khi kết luận rằng:
Quote
Ngay kinh đô Văn Lang của các vua Hùng có thể cũng chỉ là một Làng Lớn (Làng Cả – Kẻ Cả) mà thôi
Và ngay cả đoạn văn cuối của bài viết trong phần kết luận này của ông ta cũng tự phủ nhận chính nội dung toàn bài viết. Ông ta viết:
Quote
Tất nhiên, vào thời vua Hùng không phải chỉ có Kẻ. Kẻ chỉ ở đồng bằng và vùng đồi núi thấp. ở những vùng cao có các bản, mường. Ngay gần kinh đô Văn Lang cũng có rất nhiều bản, mường của người Mường, người Dao. Có thể nói: những kẻ, bản, mường đó là những tập hợp cư dân, những đơn vị cơ sở đầu tiên của thời kỳ Hùng Vương dựng nước.
Phan Duy Kha tổng hợp
Vậy tại sao ngay gần nơi mà ông ta coi là kinh đô Văn Lang lại có những địa danh khác không phải là “kẻ”? Những nơi gọi là Bản, mường đó có thuộc về quốc gia Văn Lang không theo phương pháp phân tích địa danh để kết luận lịch sử của ông ta? Nếu như phương pháp phân tích địa danh để thẩm định biên giới của một quốc gia trong lịch sử của ông Phan Duy Kha được coi là khoa học , thì tôi có thể nói rằng: Chẳng có quốc gia nào trên thế giới này đã tồn tại trong quá khứ và ngay cả bây giờ.
(Trên đây là toàn bộ bài viết số 10 trong chuyên đề TÍNH BẤT HỢP LÝ VÀ PHI KHOA HỌC CỦA NHỮNG LUẬN ĐIỂM PHỦ NHẬN VĂN HÓA SỬ TRUYỀN THỐNG VIỆT của tác giả Thiên Sứ)
Ý kiến trao đổi của Phan Duy Kha
Trước hết, xin cảm ơn tác giả Thiên Sứ đã quan tâm đến bài viết này của tôi. Thực ra đây là một bài báo nhỏ, được đăng lần đầu tiên trên Tạp chí Thế Giới Mới, vào khoảng những năm 1990, sau đó tôi tập hợp lại, in trong cuốn Nhìn lại lịch sử (Nxb Văn hóa- Thông tin , 2003) . Đây là một bài báo nhỏ mà tôi đặt tên là Giả thuyết về sự hình thành và phân bố các làng cổ có tên là Kẻ. Là một bài báo nhỏ, nêu lên một giả thuyết, chứ đây không phải là một Luận văn, Luận điểm gì cả. mà ông dành cho cả một bài viết dài công phu như thế này thì cũng là quý lắm rồi. Chỉ có điều tôi không thể tin được là, một bài báo nhỏ của tôi lại gây bức xúc cho ông đến thế. Bức xúc đến mức là ngày Hội thảo vinh danh mẹ ruột của mình (tức Nữ sĩ Ngân Giang) mà vì sự có mặt của tôi nên ông không thèm đến. Như thế là có lỗi lớn đối với bậc sinh thành đấy.
*
VẤN ĐỀ VIỆT THƯỜNG THỊ
1. Ý KIẾN CỦA CÁC ÔNG TRẦN PHƯƠNG VÀ THIÊN SỨ
Ý kiến trao đổi giữa một người tên là Trần Phương với một người tên là Thiên Sứ về vấn đề Việt Thường Thị, có liên quan đến những luận điểm của tôi về cổ sử Việt Nam (đã đăng trong cuốn NHÌN LẠI LỊCH SỬ và cũng đã đăng một số trên trang mạng của tôi). Vì vậy xin được trích dẫn vào đây để mọi người cùng tham khảo.
(Trước – hoặc sau khi đọc bài viết này, mời bạn tham khảo một số bài viết của tôi để hiểu hai mặt của một vấn đề, đúng sai thế nào xin bạn tự rút ra kết luận) :
– Giả thuyết về cội nguồn và hai cuộc thiên di của người Việt
– Giả thuyết về sự hình thành và phân bố các làng cổ có tên là “Kẻ”
– Giả thuyết về sự tồn tại quốc gia Việt Thường trong buổi đầu dựng nước
– Thuyết Chim Lạc và người Lạc Việt : Sai lầm cơ bản của GS Đào Duy Anh
– Triệu Đà là con cháu của vua Hùng, một “giả thuyết” kỳ cục của GS Bùi Văn Nguyen
– Những công bố kỳ cục, những câu chuyện kỳ khôi cười ra nước mắt
*
Kính thưa quí vị bạn đọc quan tâm,
Anh Thiên Sứ thân mến,
Tôi tạo Topic này để chuẩn bị cho bài viết mới của tôi nhằm mục đích chia sẻ các quan điểm lịch sử hiện tại về một thời khuyết sử của dân tộc, tôi định viết trong mục ĐI TÌM CHỮ VIỆT CỔ mà anh Thiên Sứ đã giới thiệu nhưng cuối cùng đã quyết định lập Topic mới, bởi mọi nguồn gốc của vấn đề : văn minh chữ viết của người Việt cổ, một vấn đề quan trọng để minh chứng một nhà nước sớm của dân tộc ta ra đời cách đây gần 5000 năm theo chính sử, nằm ở cụm từ : Việt Thường Thị.
Khi tôi đang gõ những dòng chữ này, trong tay tôi đang tham khảo cuốn sách : NHÌN LẠI LỊCH SỬ, sách dày 1134 trang, của các đồng tác giả : KS Phan Duy Kha – TS Lã Duy Lan – TS Đinh Công Vĩ, giá bìa : 120 000đ, hiện đang bày bán ở Nhà sách Nguyễn Văn Cừ, đây là một tài liệu, mà theo tôi, có quan điểm phủ nhận bề dày văn hiến gần 5000 năm của nước ta một cách quyết liệt nhất trong các tài liệu mà tôi có dịp tham khảo.
Sau đây tôi xin tóm lược nội dung quan điểm của tài liệu này, theo lời văn của tôi, quí vị có thể tìm để tham khảo và đối chứng :
“Thời Nghiêu Thuấn (2353 TCN), có sứ giả Việt Thường Thị dâng rùa lớn, trên lưng có ghi văn Khoa Đẩu, ghi việc trời đất mở mang. Và vào thời Thành Vương nhà Chu (1063 – 1026 TCN), cũng có sứ giả Việt Thường Thị dâng chim trĩ trắng. Nhưng theo sách sử cổ nhất của nước ta (Việt Sử Lược), nhà nước Văn Lang chỉ thực sự ra đời từ TK VII TCN, tức là sau thời Nghiêu Thuấn 13 thế kỷ, và sau thời Chu Thành Vương 4 thế kỷ. Vì vậy mọi sự gán ghép khiên cưỡng đều do đời sau thêm vào …
Vậy, có thể từ thời thượng cổ, trước khi nhà nước Văn Lang ra đời, đã tồn tại một Việt Thường Thị có nền văn minh cao, có chữ viết (chữ Khoa Đẩu), về sau, Việt Thường Thị bị các vua Hùng thu phục và trở thành một bộ (trong 15 bộ) của nước Văn Lang … Vị trí của bộ Việt Thường được xác định là ở cực nam của Văn Lang, tức là vùng Khu Bốn Cũ (Thanh Nghệ Tĩnh) …
Nhưng vấn đề là tại sao khi thu phục được bộ Việt Thường, nhà nước Văn Lang không kế thừa được hệ thống chữ viết của Việt Thường Thị ? Trong các văn bản sử của Trung Hoa và VN đều không thấy nói đến chữ viết của Văn Lang, tức là thời đó nhà nước Văn Lang chưa có chữ viết. Điều này chỉ có thể lý giải là : sau khi bị thu phục, Việt Thường Thị đã giấu bí mật chữ viết của mình, trong lịch sử cũng từng có trường hợp tương tự xảy ra : sau khi nhà nước Đại Việt thôn tính Chiêm Thành đã không kế thừa được hệ thống chữ viết của người Champa ….”
Tôi xin ngừng lại ở đây vì nếu tiếp tục thì chính tôi cũng không “nuốt” nổi …
Anh Thiên Sứ và quí bạn đọc thân mến,
Trên đây là toàn bộ ý chính của tài liệu trên về vấn đề văn minh chữ viết của người Việt cổ mà Trần Phương tôi xin được tóm lược bằng lời văn của tôi. Theo tôi thấy về lập luận có vẻ rất logic nhưng khi nhìn xuyên suốt vấn đề thì thấy không ổn lắm, tôi bác bỏ luận thuyết trên.
Tôi đồng ý với anh Thiên Sứ rằng, việc chứng minh cho cội nguồn ngàn năm văn hiến của dân tộc là điều không hề dễ dàng, nhưng để phản chứng những luận thuyết như trên thì không phải là việc khó.
Có vài lời chia sẻ, mong được quí vị quan tâm minh xét.
Anh Trần Phương thân mến.
Về Tiến sĩ Đinh Công Vĩ, ông ta đã có dịp trao đổi với tôi về một số vấn đề liên quan đến lịch sử thời Hùng Vương. Khi trao đổi với tôi về các luận điểm liên quan, ông ta đã thừa nhân không phải là nhà nghiên cứu chuyên nghiệp về cổ sử, nên những vấn đề mà ông ta nêu ra chỉ là theo…phong trào.
Câu chuyện tương tự là họa sĩ Hoàng Hùng – ông là một người hoàn toàn ủng hộ một nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm văn hiến, nhưng khi vẽ một bức tranh minh họa về một người thày dạy chữ viết của dân tộc Việt thì ông ta thể hiện người thày mặc áo thụng, quân bâu trắng, tay cần gậy trúc, nhưng toàn bộ học trò và phụ huynh lại …”Ở trần , đóng khố”. Tôi có phản bác thì ông ta xin lỗi vì cũng thể hiện theo …phong trào.
Nhưng đối với Phan Duy Kha thì tôi có kỷ niệm sau:
Trong cuộc hội thảo thơ Ngân Giang tại Văn Miếu Quốc Tử Giám năm ngoái, có danh sách đọc tham luận là Phan Duy Kha. Tôi khẳng định một điều:
Nếu có Phan Duy Kha tham gia tôi sẽ không tham gia cuộc hội thảo của Nữ Sĩ Ngân Giang, mặc dù bà chính là mẹ tôi. Vì tôi e rằng nếu có một sự thống nhất ý kiến nào đó về Nữ Sĩ Ngân Giang với ông Phan Duy Kha thì e rằng người ta có thể hiểu nhầm về quan điểm đối với cội nguồn dân tộc cũng có thể có một số điểm thống nhất. Bởi vậy tôi không thể tham gia chung với bất cứ ai phủ nhận nền văn hóa sử truyền thống của dân tộc Việt trong bất cứ một lĩnh vực nào.
Tôi cung cấp nhưng thông tin này để anh lưu ý. Tuy nhiên, tôi sẽ trực tiếp gặp ông Đinh Công Vĩ và chứng minh những sai lầm của những luận điểm phủ nhận nền văn hiến Việt của ông ta và tôi cũng sẽ chứng minh những sai lầm trong các bài viết của các tác giả khác khi anh đưa lên đây ở topic này.
Theo tôi anh nên xem xét lại quạn điểm của anh khi cho rằng Việt Thường ở Khu Bốn cũ. Nếu anh thấy luận điểm của anh hợp lý anh vẫn nêu lên ở đây và chúng ta cùng trao đổi.
Nói thiệt với các cao nhân và những ai tham gia hoặc xem chơi diễn đàn này một điều là trình độ học vấn của LacTuong chỉ đủ vài ba lá mít lận lưng thôi, nhưng cũng thấy một và điều mâu thuẩn đến độ “ngây thơ kiểu tiến sĩ” rằng:
Việt Thường Thị bị các vua Hùng thu phục và trở thành một bộ (trong 15 bộ) của nước Văn Lang
rồi thì nói rằng:
Trong các văn bản sử của Trung Hoa và VN đều không thấy nói đến chữ viết của Văn Lang, tức là thời đó nhà nước Văn Lang chưa có chữ viết.
Vậy thử hỏi:
các vua Hùng ra lệnh cho 15 bộ bằng thứ gì?
Hể có vua thì phải có quan lớn, quan nhỏ, vậy lấy gì là bằng chứng là người đó là quan? Hể có quan thì phải có kiện cáo, Lấy gì làm đơn kiện đây?
“Việt Thường Thị đã giấu bí mật chữ viết của mình”.
Được bao nhiêu năm vậy? Mà dấu bằng cách nào?
Đại Việt thôn tính Chiêm Thành đã không kế thừa được hệ thống chữ viết của người Champa ….”
Ngộ thiệt! Đã có sẵn, hay nói chính xác hơn là đã và đang dùng chữ Trung Hoa rồi, một nước lớn, hà cớ gì lại phải cải chữ, nhưng lại phải học lấy chữ viết của một tiểu quốc, như thế là hạ thấp thể diện của một Đại Việt lắm sao? Nếu có, là phải của riêng ta mới đáng tự hào kia chứ? Bằng chứng là chữ Nôm. Nhưng chữ Nôm vẫn không thoát khỏi cái vòng kim cô của chữ Hán.
Văn Lang chưa có chữ viết, không văn minh bằng Việt Thường Thị nhưng mà cái gì thể hiện trên trống đồng vậy ta?
Mình không phải là “Học giả” nên những điều trên không phải là phản biện, chỉ nêu một vài thắc mắc vậy à.
Tôi nghĩ là có thể anh Thiên Sứ đã hiểu lầm ý tôi :
Theo tôi anh nên xem xét lại quạn điểm của anh khi cho rằng Việt Thường ở Khu Bốn cũ
Trên đây chỉ là quan điểm của tài liệu trên mà tôi trích dẫn, còn riêng tôi thì không có ý kiến gì, bởi vì chắc anh cũng đã biết, riêng việc phân chia 15 bộ (theo quan điểm mới : từ thế kỷ VII TCN) đã không có sự thống nhất chung của các tài liệu với nhau, thậm chí tác giả Lê Gia trong “Lạc Việt Sử Ca” cũng đã rất khẳng khái rằng : “Thực ra việc phân chia ấy là do đời nhà Đường phân ra để cai trị chứ trước đó nhà nước Văn Lang làm gì có chữ viết, …”. Tuy nhiên, theo tôi, vùng đất Khu Bốn cũ thì đúng là phù hợp với vùng cực nam của cương vực nhà nước Văn Lang theo truyền thuyết (Nam giáp Hồ Tôn).
Về KS Phan Duy Kha thì tôi cũng chưa hiểu là chức vụ hay học vị gì, không biết Nhà xuất bản có in nhầm hay không (NXB VH-TT : Hà Nội 2003), nhưng tôi khẳng định rằng tôi đã không trích lầm : KS Phan Duy Kha chứ không phải là TS Phan Duy Kha.
Ở bài viết trên tôi chỉ trích đoạn có liên quan đến vấn đề chữ viết của người Việt cổ, còn ngoài ra, theo tôi thấy, tài liệu này cũng đã phủ nhận rất nhiều các vấn đề khác nữa (thời cổ sử) mà tôi không thể trích hết trong 1 Topic như vầy, chẳng hạn : “Không có chuyện Kinh Dương Vương sinh ra Lạc Long Quân …”
Có lẽ tôi cũng xin nhắc lại quan điểm của tôi : tôi tham gia diễn đàn này với tinh thần hoàn toàn mang tính xây dựng, mọi trích dẫn mà tôi viết lại theo lời văn của tôi đều dựa trên cơ sở những quan điểm chính của các tài liệu đó, mọi sự tổng hợp và rút ngắn hoàn toàn do chủ quan của tôi, và chỉ nhằm mục đích ngắn gọn, dễ hiểu … chứ tuyệt đối không bao giờ có ý thêm bớt nội dung hay hành động thiếu tôn trọng tác giả.
Nguồn: Diễn đàn Lý Học Đông Phương
Ý kiến nhận xét nhỏ của Phan Duy Kha:
1. Không hiểu sao quý vị lại lấn cấn chuyện Phan Duy Kha là KS (Kỹ sư) hay là TS (Tiến Sỹ) . Đối với một luận thuyết khoa học thì người ta quan tâm nhiều đến tính Khoa học và tính Thuyết phục của nó. Chứ tác giả của nó bằng cấp gì có quan trọng lắm đâu. Ngày xưa, các Trạng nguyên , Bảng nhãn, Thám hoa, Tiến sỹ thì nhiều, nhưng những người có thơ văn, có các công trình trước thuật để lại cho đời có được mấy ai. Ngược lại, Nhà sử học Phan Huy Chú chỉ đỗ Tú tài thôi (Kép Thầy), chưa lấy nổi cái bằng Cử nhân chứ đừng nói gì đến Tiến sỹ, vậy mà trước tác của ông để lại đồ sộ thế. Thời đại chúng ta cũng vậy thôi. Bao nhiêu anh Hai Lúa, trình độ chưa hết Phổ thông Trung học mà sáng tạo ra tàu thủy , trực thăng, trong lúc GS, TS của ta ngồi đầy các Viện này, viện nọ, phát minh sáng tạo được gì. Vì vậy, các vị đừng quá câu nệ vào bằng cấp. Đấy là chưa nói có bao nhiêu bằng mua, bằng dởm.
2. Ông Thiên Sứ nhận mình là con trai bà Nữ sĩ Ngân Giang. Cách đây mấy năm, chúng tôi có tổ chức một cuộc Hội thảo về Bà tại Văn Miếu- Quốc Tử Giám. Để tổ chức thành công cuộc Hội thảo, chúng tôi đã có công tác chuẩn bị mấy tháng trời trước đó: Tìm tư liệu, phân công viết bài, chúng tôi cũng đã về làng Hướng Dương, xã Thắng Lợi, huyện Thường Tín (nay thuộc Hà Nội) thắp hương viếng mộ Nữ sĩ Ngân Giang (hiện còn ảnh chụp đăng trong cuốn Lấp lánh sông trời, Tuyển thơ Ngân Giang – Nxb Phụ Nữ, 2006. Trong ảnh còn ghi rõ tên từng người) . Đại diện cho gia đình Nữ sĩ Ngân Giang có ông Nguyễn Thức, con trai thứ của Nữ sĩ. Tất cả các hoạt động đó, tôi không hề thấy ông Thiên Sứ tham gia. Sao ông lại có thể vô tình với mẹ đẻ của mình như thế. Vậy mà còn dám đưa lên mạng, không sợ người đời cười chê hay sao ? Hôm tổ chức Hội thảo ở Văn Miếu, các nhà khoa học và rất đông bạn đọc yêu thơ Ngân Giang đã tham gia. Nếu vì có mặt tôi tại cuộc Hội thảo đó mà ông không thèm tham gia Hội thảo vinh danh mẹ mình thì cũng cần xem xét lại bản thân .
Ghi chú thêm: Bài viết này Post lên mạng được một thời gian , một hôm bỗng nhiên tôi nhận được điện thoại của một ông bạn:
– Thế ông có biết Thiên Sứ là ai không ?
– Không biết. Hồi làm Hội thảo về bà Ngân Giang, tôi cũng có tìm hiểu về đời tư của bà. Nữ sĩ Ngân Giang lấy bốn (4) đời chồng và có tất cả mười (10) người con, nhưng tôi không thấy có người nào tên là Thiên Sứ cả.
– Ông này không phải tên là Thiên Sứ đâu. Đấy chỉ là bút danh. Tên thật của ông ta là Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Ông có nhớ hồi chuẩn bị kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội không? Hồi ấy có một người tự nhận là mình có tài “hô phong hoán vũ”, có thể “đuổi ” được mây mưa ra khỏi bầu trời Hà Nội để đảm bảo cho thời tiết trong 10 ngày lễ hội không mưa, không bão . Báo chí hồi đó gọi ông ta là “Dị Nhân” , chính là ông này. Cũng rộ lên một dạo đấy.
– À, ra thế ! Thảo nào …
*
2. BÀI VIẾT CỦA ÔNG TRẦN KINH NGHỊ
Cội nguồn dân tộc Việt Nam chuyển dần xuống phía Nam?
Phan Duy Kha cũng là tác giả của bài viết “Giấc mơ của Vua Lê Thánh Tông” (Có thể tham khảo bài viết tại đây nhin-lai-lich-su-thu-ly-giai-giac-mo-cua-vua-le-thanh-tong ). Trong bài này tác giả có nhắc lại một câu hỏi mà người Việt luôn trăn trở: Tại sao các đời vua Hùng dài thế mà không có chữ viết?. Nhưng tác giả lại không tìm hiểu nguyên nhân tại sao, mà chỉ căn cứ vào lý do nó không được ghi chép trong sách sử của Trung Quốc đồng thời đề cao chữ viết của bộ tộc Việt Thường thị (vì nó đã được nhắc đến trong sách sử của Trung Quốc!). Từ đó tác giả suy ra Việt Thường thị đã có chữ viết sớm hơn nhiều so với sự ra đời các Vua Hùng… và đi tới kết luận: Chữ Khoa đẩu là của Việt Thường và là chữ viết của người Việt cổ; và do đó Việt Thường thị là trung tâm nguồn cội, chứ không phải nước Văn Lang của các vua Hùng (!?)
Được biết, từ sau cách mạng tháng Tám năm1945 đã hình thành và phát triển trường phái quan niệm rằng nước Văn Lang của các Vua Hùng chỉ nằm gọn trong vùng châu Thổ Sông Hồng. Trường phái này phớt lờ các địa danh như Hồ Động Đình, núi Thái Sơn, Sông Tương, cánh Đồng Tương, v.v… trong truyền thuyết Âu Cơ -Lạc Long Quân , không đào sâu nghiên cứu xem tại sao Âu Việt, Lạc Việt cấu thành nước Văn Lang và Nam Việt của Triệu Đà (sau An Dương Vương) nằm bên trong lãnh thổ Trung Quốc ngày nay?. Và giờ đây các nhà nghiên cứu Việt Thường thị đang tiến thêm một bước nữa với lập luận rằng nguồn cội người Việt là từ Nghệ An xuống miền Trung Việt Nam đến tận vương quốc Phù Nam xưa !. Phải chăng họ đang lẫn lộn giữa nguồn cội với nhưng gì mà ông cha ta đã mở mang bờ cõi sau này? Nếu cách lập luận này tiếp tục, chẳng mấy chốc người Việt sẽ “mất hút” dấu tích nguồn cội đích thực của mình từ phương Bắc.
*
VẤN ĐỀ MỘ LẠC LONG QUÂN Ở LÀNG BÌNH ĐÀ
9 bình luận Add your own
Bình luận về bài viết này
Trackback this post | Subscribe to the comments via RSS Feed
1. thao cung | Tháng Tư 7, 2015 lúc 4:28 sáng
Ve chuyen ks (ky su )hay ts ( tien sy) toi thay the nay: dung la cai chuc danh ay khong dang de tam nhieu nhung viec cac nha xuat ban, cac co quan van hoa ma cu lam dung hay dung nham, in nham nhieu qua do cau tha hay do bat cu ly do gi thi that khong van hoa hoac qua van hoa qua
2. ngayvadem3t | Tháng Năm 18, 2017 lúc 1:01 sáng
Lấn cấn ts ts là ngụy biện. Cảm ơn bác vì bài viết hay.
3. phanduykha | Tháng Năm 19, 2017 lúc 5:08 sáng
Cam on ban da dong cam voi nguoi viet
4. Hoang Phan USA | Tháng Sáu 6, 2018 lúc 3:24 chiều
Kính Thưa Bác Phan Duy Khã,
Cháu là hậu duệ cũa Ông Phan Văn Thúy ..xin thành thật Bác nhờ Bác giúp đỡ:
Cháu xin nhờ Bác cho ý kiến: Ông Phan Văn Lân có phải là thân phụ cũa Ông Phan Văn Thuy.?…Có tài liệu nói rằng cha cũa Phan Văn Thúy la Phan Văn Lân cũng là Thũy Sư Đề Đốc giồng nhu ông
Cháu xin nhờ Bác hương dẫn về chi tiết nầy
Xin thành thật cãm ơn Bác
Xin Bác vui lòng phãn hồi về email: pdhoang75@gmail.com
Cháu Phan Đình Hoàng USA
5. phanduykha | Tháng Sáu 8, 2018 lúc 7:10 sáng
Cháu cho bác biết về hạnh trạng của ông Phan Văn Thúy nhé. Ông sống vào thời nào, đã có những hoạt động gì được ghi lại trong sử sách
6. Hoang Phan USA | Tháng Sáu 8, 2018 lúc 2:17 chiều
Chau xin bac cho chau xin so di dong cua Bac de tien viec lien lac. Phan Van Thuy (1830 ?) la nguoi da duoc Vua Minh Mang de cu voi Truong Minh Giang danh chiem thanh Gia Dinh. Chau la hau due cua Ong Phan Van Thuy. Chau co doc bai su noi ve than phu cua Ong Phan Van Thuy la Phan Van Lan cung la thuy su De Doc.
Kinh Bac
Phan Dinh Hoang USA
7. Phan Dinh Hoang | Tháng Bảy 24, 2018 lúc 2:38 sáng
Kính Thưa Bác Phan Duy Khã,
Cháu là hậu duệ cũa Ông Phan Văn Thúy ..xin thành thật Bác nhờ Bác giúp đỡ:
Cháu xin nhờ Bác cho ý kiến: Ông Phan Văn Lân có phải là thân phụ cũa Ông Phan Văn Thuy.(1883) ?…Có tài liệu nói rằng cha cũa Phan Văn Thúy la Phan Văn Lân (1730) ( cũng là Thũy Sư Đề Đốc 2 nguoi giong nhau)
Bac co viet 2 bai ve 2 ong nay rieng biet cung dang tren Web nay
Cháu xin nhờ Bác hương dẫn về chi tiết nầy
Xin thành thật cãm ơn Bác
Xin Bác vui lòng phãn hồi về email: pdhoang75@gmail.com
Cháu Phan Đình Hoàng USA
8. phanduykha | Tháng Bảy 24, 2018 lúc 10:17 sáng
Có lẽ chỉ là sự trùng tên thôi chaú à. Phan Văn Lân sống thời Tây Sơn, Phan Văn Thúy sống thời Minh Mạng, cách nhau hơn 100 năm làm sao lại là thân phụ được. Có lẽ ông Phan Văn Thúy có thân phụ là Phan Văn Lân, nhưng không phải là Phan Văn Lân thời Tây Sơn. Thân ái chào cháu
9. Phan Dinh Hoang | Tháng Bảy 24, 2018 lúc 11:42 sáng
Xin thanh that cam on Ba’c.
PDHoang